A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
I. Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia chiến đấu.
II. Khái quát về tác phẩm
- “Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Bao trùm đoạn trích Đất Nước là cảm hứng ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ nước. Đoạn trích gồm hai phần:
- Phần 1 “Khi ta lớn lên… Đất Nước muôn đời”: Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất nước.
- Phần 2: Từ “Những người vợ nhớ chồng… trăm dáng sông xuôi” Tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.
III. Nội dung đoạn trích
Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước
- Đất nước được hình thành, nuôi dưỡng từ những gì gần gũi, bình dị nhất : câu chuyện của mẹ, miếng trầu của bà,… Con người có thể cảm nhận về đất nước qua những hình ảnh thân thương nhất trong cuộc sống hằng ngày ; búi tóc của mẹ, nghĩa tình sâu nặng, thuỷ chung của mẹ cha, cái kèo cái cột trong ngôi nhà ta ở, hạt gạo hằng ngày nuôi sống con người,… Cả một quá trình sinh thành của đất nước – từ lúc khởi đầu đến khi trưởng thành và trường tồn, đều gắn liền với những con người bình thường, bé nhỏ, thân thiết như chính ông bà, ; cha mẹ của mỗi chúng ta. Bằng cách cảm nhận này, nhà thơ đã khẳng định; nhân dân là chủ thể sáng tạo nên đất nước.
- Hai thành tố đất và nước khi thì được tách riêng, khí thì họp lại nhưng đều tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân. Tư tưởng ấy thấm đượm trong những “định nghĩa” khác nhau về đất nước. Đất nước là những khoảng ; không gian bé nhỏ, riêng tư của mỗi con người : là con đường đưa ta đến trường 1 ngày thơ bé, là bến nước, cây đa, sân đình ; là nơi hẹn hò, tình tự của mỗi lứa : đôi.Ií Đất nước còn là những gì lớn lao, thiêng liêng nhất – là cái nôi sinh tụ của I cộng đồng dân tộc :
- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...
- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.
- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.
- Về không gian địa lý:
- Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người (nơi anh đến trường... nơi em tắm).
- Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
- Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).
- Về thời gian lịch sử: Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
- Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).
- Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”)
- Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).
- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người:
- Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
- Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.
- Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.
Phần 2: Tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân
Tư tưởng ấy đã được tác giả chứng minh từ nhiều phương diện cảm nhận về đất nước.
- Từ không gian địa lí: nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến:
Những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;
Cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;
Người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;
Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Qua cách nói của nhà thơ, tất cả núi sông, rừng bể ấy đều là tặng vật của nhân dân. Nếu không có bao nhiêu thế hệ những người vợ, người mẹ từng đợi chờ thuỷ chung, mòn mỏi thì núi mãi chỉ là đá, không thể hoá thành những Vọng Phu vời vợi giữa trời. Nhân dân đã truyền cả tâm hồn vào cảnh vật… để Đất và Nước trở nên có linh hồn, có sự sống. Nhân dân đã khai phá đất đai, lập nên những xóm làng, ruộng đồng, bờ bãi. Hình vóc của đất nước, ở nơi đâu cũng là vóc hình của nhân dân:
Và ở đâu trên khắp các ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
==> Nhà thơ đã sử dụng không gian địa lí để khám phá, ngợi ca công lao to lớn của nhân dân trên hành trình dựng nước.
- Từ thời gian lịch sử: Khi tái hiện dòng thời gian lịch sử, nhà thơ không nhắc lại những triều đại hoàng kim, những anh hùng được sử sách lưu danh mà “cả anh và em đều nhớ”. Trên nền quá khứ mấy ngàn năm, nhà thơ đã tô đậm hình ảnh của những lóp người bình thường, vô danh:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ là nhân dân. Họ không để lại tên tuổi của mình trong sử sách nhưng chính họ đã sáng tạo nên những trang sử hào hùng cho nước non này, Họ làm ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước :hạt lúa, ngọn lửa , tiếng nói, tên xã tên làng, đắp đập be bờ để có ruộng đồng bờ bãi cho người sau trồng cây hái trái”… Nhân dân luôn sẵn sàng đứng lên chiến đấu đánh đuổi cả ngoại xâm lẫn nội thù để gìn giữ một đất nước tự do, thanh bình.
- Về văn hóa: khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, thần thoại. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
==> Như vậy, nhân dân chính là những người đã góp phần tạo dựng và gìn giữ bản sắc dân tộc. Nhân dân dạy ta biết đắm say, lãng mạn mà thuỷ chung trong tình yêu; biết trọng nghĩa tình hơn của cải và bền bỉ phi thường trong chiến đấu. Đoạn thơ kết thúc bằng niềm tin và hi vọng về một tương lai thanh bình cho quê hương.
IV. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi tạo nên thế giới nghệ thuật bay bổng diệu kì mà gần gũi thân thiết
- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt
- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình, vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian, cách nói dân dã, đậm đà bản sắc dân tộc.